Hiệp định Paris trong ký ức nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi
Ông Lưu Văn Lợi trong một phiên đàm phán hòa bình tại Paris (hàng trong cùng, người đeo kính ngồi thứ hai từ trái sang)

Ông Lưu Văn Lợi trong một phiên đàm phán hòa bình tại Paris (hàng trong cùng, người đeo kính ngồi thứ hai từ trái sang)

Hai người (Henry Kissinger và Lê Đức Thọ) đã biết tiếng nhau, nhưng chưa gặp nhau lần nào, cũng chưa hiểu nhiều về nhau. Ngày 21/02/1972, Lê Đức Thọ và Kissinger gặp nhau lần đầu tiên theo yêu cầu của Kissinger tại ngôi nhà nhỏ xinh xắn số 11 phố Darthes, thị trấn Choisy-le-Roy. Phòng khách nhỏ, họ như ngồi sát bên nhau.

Người ta thường nói: Đông là Đông, Tây là Tây, Đông Tây không bao giờ gặp nhau. Kìa trông Lê Đức Thọ và Kissinger, Đông chẳng gặp Tây đó sao? Nhưng thật ra, đó là hai con người, mà cũng có thể nói là hai thế giới.

Kissinger là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, có người bảo là môn đệ của Machiavelli, có người lại bảo là môn đệ của Metternich … Trên thế giới, ông nổi tiếng về một số bài viết về tình hình quốc tế. Trong nước, ông cũng có nhiều tham vọng… Kissinger ý thức rõ ràng về tài năng của mình và đã khoe với Lê Đức Thọ rằng mỗi lần lên lớp tại trường đại học Harvard, ông nói liền 55 phút mới nghỉ. Điều đó chắc là đúng, nhưng không có nghĩa là logic của ông lúc nào cũng thuyết phục được hai ông Xuân Thủy và Lê Đức Thọ. Hay nói đúng hơn, không phải lúc nào ông cũng đủ lý lẽ để có thể bẻ được logic của Lê Đức Thọ.

Trong khi đó, tiểu sử Lê Đức Thọ giản dị hơn nhiều, giản dị như một câu chuyện dân gian… Ông không được học trường đại học nào, trường ngoại giao nào. Sách của ông là tác phẩm của Karl Marx, Engels, Lenin, Nguyễn Ái Quốc. Kiến thức của ông là vốn sống của cuộc đời; tình thương yêu của đồng chí, hận thù thực dân phong kiến. Làm ngoại giao với ông là nhiệm vụ cách mạng, cũng là nhiệm vụ thật mới. Nếu nói theo kiểu người Trung Quốc, ông là “nhà ngoại giao chân đất”.

Gặp khách mời, người nông dân đất Kinh Bắc xưa thường nói: “Nhất kiến vi cựu, trao cho nhau miếng trầu cánh phượng để xây dựng mối duyên lành”. Ở đây, hai nhà ngoại giao Việt Nam, Mỹ gặp nhau lần đầu để làm quen với nhau, để rồi thăm dò, tìm hiểu nhau. Cái đó mới là điều quan trọng tất nhiên đối với cả hai bên.

Ông Lưu Văn Lợi trong cuộc họp bốn bên tại Trại Davis về thực thi Hiệp định Paris năm 1973

Ông Lưu Văn Lợi trong cuộc họp bốn bên tại Trại Davis về thực thi Hiệp định Paris năm 1973

Mở đầu buổi gặp gỡ, Kissinger đã nói nguyện vọng của Mỹ là nhanh chóng giải quyết vấn đề Việt Nam. Về phần mình, Lê Đức Thọ cũng nhẹ nhàng nói tới nguồn gốc chiến tranh, triển vọng, sai lầm của Mỹ khi gây ra chiến tranh tại Việt Nam và khẳng định thái độ của Việt Nam: Nếu Mỹ và Việt Nam cùng có thiện chí, đàm phán sẽ có kết quả. Nếu Mỹ không muốn giải quyết, tiếp tục đánh thì Việt Nam sẵn sàng tiếp tục chiến đấu. Như muốn phác họa bức tranh của cuộc đàm phán, ông cũng chủ động nêu một loạt vấn đề: rút quân Mỹ, gạt bỏ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ - Trần Văn Hương, công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời; việc lập Chính phủ liên hiệp, cách thảo luận là bàn cả vấn đề quân sự và vấn đề chính trị. Gọi đó là một chương trình nghị sự cũng được…

Để kết luận, Lê Đức Thọ nói: “Trong hai con đường hòa bình và chiến tranh, các ông nên chọn lấy một. Nếu các ông chọn con đường hòa bình thì chúng ta có thể giải quyết vấn đề một cách hòa bình và sau khi hòa bình lặp lại, quan hệ hai nước chúng ta sẽ mở ra một trang sử mới”.

Kissinger gửi một báo cáo lạc quan về Nhà Trắng, coi đây là cuộc gặp quan trọng nhất kể từ khi bắt đầu cuộc nói chuyện năm 1968 với lời ông ghi vào nhật ký: “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán xám hoặc marông, đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ niềm tin đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông lúc nào cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách tận tụy và khéo léo. Lê Đức Thọ tiếp tôi với một sự lễ phép có khoảng cách của con người mà ưu thế hiển nhiên đến mức không thể làm khác bằng một kiểu lễ phép gần như hạ cố”.

Sau ba đợt thăm dò, ta thấy khả năng Mỹ thỏa thuận với ta để Nixon vượt bầu cử, nhưng cũng thấy khả năng Nixon muốn giải quyết trước bầu cử để bảo đảm chắc thắng, do đó đoàn ta tranh thủ khả năng giải quyết vào thời điểm 15 tháng 10.

Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger chúc mừng nhau sau lễ ký tắt Hiệp định Paris

Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger chúc mừng nhau sau lễ ký tắt Hiệp định Paris

Ngày 08/10/1972, cuộc họp diễn ra tại nhà số 108 phố General Leclerc, thị trấn Gif sur-Yvette, ngoại ô Paris. Lê Đức Thọ nói: “Để đảm bảo nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, lặp lại hòa bình và để tỏ thiện chí của chúng tôi, hôm nay tôi đưa ra đề nghị mới cả về nội dung và cách đàm phán thiết thực và đơn giản như sau…”.

Sau khi nghe xong, sự vui mừng lộ rõ trên mặt của Kissinger cũng như các thành viên trong đoàn Mỹ. Kissinger từng đi Bắc Kinh, Moscow và đạt nhiều thỏa thuận nhưng hôm nay ông ta cảm thấy vui hơn mọi lần. Ông viết trong hồi ký: “Tôi chưa bao giờ cảm động bằng buổi quá trưa mát mẻ của Chủ nhật mùa Thu ấy”.

Một buổi chiều cũng mùa Thu ấy, hai đoàn bắt đầu thảo luận từng điều khoản. Lần đầu tiên tôi ra mắt công khai với đoàn Mỹ. Bắt đầu cuộc họp, Lê Đức Thọ phát biểu: “Tôi xin giới thiệu ông Lưu Văn Lợi, cố vấn pháp lý của đoàn Việt Nam”.

Kissinger nguýt tôi qua cặp kính trắng: “Luật giáo hội à (droit canonique)?”. Mọi người coi đó là lối chơi chữ sở trường của ông nên đều cười, tôi cũng cười.

Ông Lưu Văn Lợi (đeo kính) tại Hội nghị Trung Giã năm 1954

Ông Lưu Văn Lợi (đeo kính) tại Hội nghị Trung Giã năm 1954

Trong lúc thảo luận, có lúc Kissinger phàn nàn chuyên viên của ta đã nêu 17 vấn đề, trong đó có nhiều vấn đề Lê Đức Thọ và ông ta đã thỏa thuận xong rồi… Cuộc thảo luận về từ ngữ trở nên căng thẳng xung quanh các từ “đôn đốc”, “khuyến khích”, “thúc đẩy”, “giám sát”… Kissinger đả kích tôi: “Ông Lưu Văn Lợi muốn được thưởng huân chương nên có nhiều ý kiến trong việc dùng từ ngữ”. Có lần gặp bất đồng, ông Lê Đức Thọ chỉ tôi: “Ông Lợi khuyên tôi không nên nhận”.

Đáp lại, có lần Kissinger nói: “Cần cho ông Lưu Văn Lợi phục viên về sinh quán”. Có chuyện này bởi Kissinger đòi ta rút quân miền Bắc về miền Bắc, ông Lê Đức Thọ không đồng ý. Khi đó, Kissinger nêu vấn đề với kiểu chơi chữ: “Nếu quân miền Bắc phục viên thì phải nói “phục viên về sinh quán”. Vì thế, lần này Kissinger đã đả kích tôi bằng cách nói: “Cho ông Lợi phục viên về sinh quán”.

Lần khác, ông Thọ và Kissinger tranh luận đi lại mà không đạt thỏa thuận. Kissinger ra vẻ khó chịu nói: “Mỹ không có chuyên viên đủ sức tế nhị như ông Lợi. Phải dựng tượng ông Lợi cạnh bờ hồ”. Lê Đức Thọ cũng tỏ ra vui vẻ thêm vào: “Chân bức tượng phải ghi những đề nghị sửa đổi hiệp định của ông Lợi”.

Sáng ngày 20/10, đoàn Mỹ chuyển trả lời của Tổng thống (Richard Nixon – người biên soạn): Với sự thỏa thuận của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về hai vấn đề tại “văn bản của hiệp định bây giờ có thể xem là đã hoàn chỉnh”. Công hàm còn viết Hiệp định sẽ ký ngày 31/10 tại Paris. Tuy nhiên, ngày 23/10, Nixon gửi công hàm khẩn cấp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông báo Mỹ gặp khó khăn với chính quyền Sài Gòn và rất nhiều vấn đề kỹ thuật mới xuất hiện, do đó đề nghị một cuộc gặp riêng với Lê Đức Thọ tại Paris và hoãn chuyến đi Hà Nội của Kissinger.

Thái độ lật lọng của Mỹ quá rõ ràng, buộc ta phải chống lại. Ngày 26/10/1972, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố “Tình hình cuộc đàm phán về vấn đề Việt Nam hiện nay”, tóm tắt quá trình đàm phán hơn bốn năm qua, sự tiến triển của cuộc thảo luận từ đầu tháng 10, việc hoàn thành hiệp định và thỏa thuận sẽ ký ngày 31/10/1972. Bản tuyên bố bác bỏ những lý do trì hoãn của Mỹ và đòi Mỹ ký Hiệp định vào ngày 31/10/1972 như đã thỏa thuận. Đây là cuộc đấu tranh công khai mạnh mẽ nhất, vạch rõ trắng đen nhất. Kissinger đã họp báo, cố nêu thiện chí của Mỹ nhưng dư luận vẫn đòi Nixon ký ngay hiệp định ngày 31/10.

Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và các thành viên trong đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi ký tắt Hiệp định Paris, ngày 23/01/1973

Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và các thành viên trong đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi ký tắt Hiệp định Paris, ngày 23/01/1973

Tuy vậy, việc Richard Nixon chịu bàn việc chấm dứt chiến tranh là sự thật đã tạo lợi thế cho ông ta khi tranh cử. Ngày 07/11, Nixon đã trúng cử Tổng thống lần thứ hai. Khi đã vượt qua bầu cử, Nixon quay lại bàn đàm phán nhằm xoa dịu dư luận, đồng thời hy vọng ép ta sửa đổi hiệp định theo yêu cầu của Mỹ và phía Thiệu.

Ta chấp nhận họp lại. Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa 69 điểm, còn Kissinger nêu ra 16 vấn đề. Đợt họp thứ nhất bắt đầu ngày 20/11/1972, kéo dài đến ngày 25/11. Trong lần gặp gỡ ngày 25/11, Kissinger đã đọc một bức điện của Nixon dọa sẽ trở lại hoạt động quân sự nếu Việt Nam không chịu sửa đổi theo yêu cầu của Mỹ.

Lê Đức Thọ nói: “Tổng thống Nixon nói đến danh dự nước Mỹ, chúng tôi cũng có danh dự của chúng tôi. Các ông đem quân đến xâm lược nước chúng tôi, bây giờ các ông phải rút đi, lại đòi chúng tôi, những người chống xâm lược rút đi?”.

Cuộc họp 25/11 căng thẳng chỉ có 1h30 phút, kể cả việc phiên dịch. Trong báo cáo về Nhà Trắng, Kissinger đề xuất với Nixon hai sự lựa chọn: một là cắt đứt đàm phán, hai là bỏ các yêu cầu của Thiệu. Nixon ở thế không thể bỏ đàm phán được nên chưa có lối thoát, phải chỉ thị cho Kissinger nghỉ họp một tuần.

Đợt họp thứ hai kéo dài từ ngày 4/12 - 12/12. Việc bàn các điểm đều căng thẳng. Lê Đức Thọ nhấn mạnh: “Nếu các ông không sửa chữ nào thì chúng tôi cũng không sửa chữ nào… Tóm lại, chúng tôi sẵn sàng bỏ tất cả những điều mới thêm”.

Đề nghị mềm dẻo nhưng cứng rắn của Lê Đức Thọ tác động mạnh mẽ đến Kissinger. Ông ta phải xin hoãn họp 24 giờ và báo cáo với Nixon: phía Việt Nam đề nghị hai lựa chọn - không thay đổi bất cứ điều gì hoặc là chấp nhận nguy cơ tan vỡ cuộc thương lượng. Ông ta đề nghị “phải sẵn sàng chuẩn bị cho sự tan vỡ” và đẩy mạnh ném bom miền Bắc để gây áp lực với Bắc Việt Nam. Ông ta cũng nêu lại vấn đề từ chức. Trên thực tế, ông ta cũng giảm bớt yêu cầu của Thiệu.

Đến ngày 12/12/1972, giữa các bên còn lại hai vấn đề. Trong phiên họp này, hai bên thỏa thuận hôm sau chuyên viên hai bên rà soát lại văn bản. Khi rà soát văn bản, ông Kissinger nói: “Về văn bản thì ông Lưu Văn Lợi và ông Negroponte là những kẻ phá hoại… Ông Lưu Văn Lợi là người cầm đầu nghiệp đoàn buôn trâu”.

Đúng là tôi có sửa hay bỏ một số chỗ. Cuộc thảo luận hôm nay lại sôi nổi về vấn đề từ ngữ. Về chức năng của Hội đồng hòa hợp dân tộc có chức năng “đôn đốc” hai chính quyền thi hành Hiệp định. Phía Mỹ không đồng ý dùng từ “đôn đốc” và đề nghị dùng các từ “to see” (trông nom, giám sát), “to see to” (chăm lo). Cuối cùng, ta giữ từ “đôn đốc” trong bản tiếng Việt, còn tùy Mỹ dùng từ gì thì dùng.

Ông Lưu Văn Lợi trong lễ mừng thọ 100 tuổi năm 2013

Ông Lưu Văn Lợi trong lễ mừng thọ 100 tuổi năm 2013

Cuộc họp tạm nghỉ. Lê Đức Thọ nói ông về Hà Nội báo cáo. Kissinger hỏi bao giờ ông về tới Hà Nội, ông Thọ nói là ngày 18/12 mới tới Hà Nội. Kissinger muốn biết ông Thọ về đến Hà Nội ngày nào là để tính ngày họp lại hay có dụng ý gì? Chưa thể trả lời câu hỏi này, nhưng không thể không nghĩ đến cuộc không kích Hà Nội bằng máy bay B52 bắt đầu ngày 18/12, lúc ông Thọ về đến Hà Nội?

Kissinger bắt tay ông Thọ và chúc ông thượng lộ bình an. Ông Thọ cũng chúc Kissinger lên đường bình yên. Khi bắt tay tôi, Kissinger hỏi: “Bao giờ tượng ông sẽ được dựng?”.

Tôi chưa kịp trả lời thì ông Thọ chen vào: “Mỹ có tiếng là giỏi về khoa học và kỹ thuật, không biết có làm nổi bức tượng ông Lợi có hai mắt nháy được không?”.

Ông Thọ, tôi và Kissinger cùng cười.

Cuộc chia tay ngày 13/12 nếu không là hữu nghị thì ít nhất cũng là bình thường. Sự thật câu hỏi của Kissinger vẫn là một ẩn số chưa có lời giải…

1. Niccolo Machiavelli (1469-1527), nhà ngoại giao, triết gia và sử học người Italy nổi tiếng với cuốn sách “Quân Vương”.

2. Klemens von Metternich (1773 – 1859), Thủ tướng và Ngoại trưởng Áo, người nổi tiếng chủ trì Hội nghị Vienna để chia lại Châu Âu sau khi Napoleon thất bại.

3. Phục viên là khái niệm thường được sử dụng trong quân đội. Hiểu theo nghĩa thông thường, phục viên là việc quân nhân trở về địa phương sau khi đã hết thời hạn phục vụ trong quân đội.

4. John Negroponte (sinh năm 1939), nhà ngoại giao người Mỹ, sau này trở thành Trưởng phái đoàn đại diện của Mỹ tại Liên hợp quốc, Giám đốc đầu tiên của Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (DNI) và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ dưới thời cựu Tổng thống George W. Bush.

Ông Lưu Văn Lợi (1913 - 2016) là vị lão thành cách mạng, nhà ngoại giao kỳ cựu, từng tham gia nhiều hoạt động ngoại giao của đất nước như thành viên đoàn đại biểu Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam đàm phán với đoàn đại biểu Bộ Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp tại Hội nghị Trung Giã (1954).

 Ông cũng từng làm trợ lý của Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Xuân Thủy trong các cuộc thương lượng giai đoạn 1972 - 1973 với Cố vấn an ninh của Nhà Trắng Henry Kissinger.

Năm 1973, ông là Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Phó trưởng đoàn đại biểu quân sự Chính phủ VNDCCH tại Hội nghị liên hợp bốn bên tại Sài Gòn. Trong giai đoạn 1978-1989, ông giữ chức vụ Trưởng ban biên giới của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao).

“Người ta gọi ông bằng nhiều cái tên khác nhau. Với công chúng, ông là bậc lão thành cách mạng, nguyên Trưởng Ban biên giới Chính phủ, nhà ngoại giao kỳ cựu Lưu Văn Lợi. Những ai đã đọc hàng loạt cuốn sách về Hiệp định Paris, nhất là “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris”, hẳn sẽ nhớ về ông với tư cách Cố vấn pháp lý của ông Lê Đức Thọ với lập luận, lý lẽ sắc sảo. Người khác có thể biết đến Đại tá Lưu Văn Lợi Phó Trưởng đoàn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại “Trại Davis” sân bay Tân Sơn Nhất, địa điểm làm việc của phái đoàn đại biểu quân sự bốn bên về triển khai Hiệp định Paris năm 1973.

Ngành Ngoại giao gọi ông là pho “từ điển sống” về kiến thức. Số khác lại “đánh dấu” ông là “ông Lợi A”, tránh nhầm lẫn với “ông Lợi B”, nguyên thư ký riêng của ông Lê Đức Thọ, nguyên Tham tán Công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô. Người từng có cơ hội làm việc với ông, từ nguyên Trưởng Ban biên giới quốc gia Trần Công Trục tới nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, thường nể “anh Lợi” bởi vốn kiến thức sâu rộng, khả năng tiếng Pháp có một không hai và trí nhớ tuyệt vời. Còn tôi tự thấy may mắn bởi có cơ hội được chứng kiến một phần cuộc đời, sự nghiệp của ông và tự hào khi có thể gọi nhà ngoại giao ấy tiếng “ông nội”’ – Lưu Minh Quân, phóng viên Báo Thế giới & Việt Nam, cháu nội ông Lưu Văn Lợi.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất