Cần có “kế sách” ứng phó với những biến động thương mại toàn cầu
(Ảnh minh họa: congthuong.vn)

(Ảnh minh họa: congthuong.vn)

Sau đại dịch Covid-19, xung đột Nga – Ukraine đã làm cho tình hình chính trị, kinh tế thế giới biến động phức tạp khó lường, khó khăn tăng lên trong giao dịch thương mại giữa các nước và vùng lãnh thổ, vấn đề này không thể “ngày một ngày hai” khắc phục được.

Việc đứt gãy các chuỗi cung ứng làm cho năng lượng, lương thực thực phẩm và các hàng hóa thiết yếu khác bị thiếu hụt, mua bán gặp khó khăn, chi phí thương mại bao gồm giao nhận, vận chuyển, dự trữ, logistics tăng cao và tuy có dịu xuống trong 8 tháng đầu năm 2024, nhưng vẫn ở mức cao.

Nổi bật nhất là việc đứt gãy các chuỗi cung ứng làm cho năng lượng, lương thực thực phẩm và các hàng hóa thiết yếu khác bị thiếu hụt, mua bán gặp khó khăn, trong khi lượng hàng dự trữ chiến lược tại chỗ của mỗi nước không phải là vô hạn.

Nhận diện những “bất ổn” trong vài năm qua nhất là trong những tháng đầu năm 2024

Từ đó, dẫn đến nạn khan hiếm hàng hóa, giá cả và lạm phát tăng cao, giá hàng hoá tuy có dịu bớt nhưng chưa có dấu hiệu trở lại “mặt bằng giá cũ” cho dù đã có những tác động mạnh mẽ của chính phủ và các giới tài chính, ngân hàng ở các nước.

Từ một thế giới mở rộng giao lưu hợp tác trong kinh tế, nhưng trong giai đoạn hiện nay đang quay trở lại hiện tượng tự cung cấp một phần các mặt hàng thiết yếu, giảm nhập khẩu, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch ở một số nước có chiều hướng tăng lên, ảnh hưởng tới một số nước chuyên phụ thuộc vào kim ngạch xuất khẩu hằng năm.

Chúng ta không thể hình dung các khu vực, châu lục phát triển trên thế giới từ chỗ đang có một cuộc sống sung túc, dư dả, ít phải suy nghĩ thì đến nay những hình ảnh hàng hóa thiếu thốn trống vắng tại các siêu thị, cửa hàng diễn ra khá phổ biến và kéo dài, thậm chí có thời điểm người tiêu dùng phải tìm kiếm những hàng hóa gần hết hạn sử dụng để mua sắm nhằm tiết kiệm “túi tiền” của mình. Đó là 1 thực tế mà từ trước đến nay ít khi xảy ra ở các khu vực, các nước trên thế giới, khó khăn nhất vẫn là các nước nghèo, chậm phát triển ở châu Á, châu Phi, …

Thế giới như vậy, Việt Nam thì sao? Trước tiên phải khẳng định, chúng ta có một điều kiện thuận lợi về nhiều mặt trong sản xuát các sản phẩm nông sản, thực phẩm mà ít nước có được. Từ đó nhiều năm nay, Việt Nam luôn giữ được ổn định kinh tế và xã hội bởi có một lực lượng hậu cần lương thực thực phẩm dồi dào phục vụ cho một trăm triệu dân và xuất khẩu hàng trăm tỉ đô la hàng hoá đi các nước.

Cùng với sự phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp cộng thêm quỹ hàng hóa nhập khẩu hợp lý, chúng ta có cơ sở khẳng định Việt Nam luôn chủ động trong việc cung ứng hàng hóa cho cầu tiêu dùng trong nước một cách bề vững.

Chính việc điều hành hiệu quả và khoa học của ngành công thương Việt Nam và sự cố gắng của các địa phương, các doanh nghiệp trong cả nước, hàng hoá Việt, nhập khẩu có điều kiện được thông qua hệ thống phân phối quốc gia ngày càng phát triển nên đã góp phần kiềm chế lạm phát ở mức hợp lý trong nhiều năm qua.

Thuận lợi là vậy, song Việt Nam không phải không có những khó khăn trong sản xuất thương mại, phân phối lưu thông và tiêu dùng. Bởi Việt Nam là một nền kinh tế mở, hội nhập sâu rộng với các nước trong khu vực và quốc tế, đồng thời cũng còn phụ thuộc phần lớn một số mặt hàng chiến lược phải nhập khẩu thường xuyên như xăng dầu, phân bón hóa chất, nguyên phụ liệu cho dệt may da giày... Đó là những điều mà chúng ta phải từng bước khắc phuc một cách chủ động trong năm 2024 và những năm tiếp theo.

Chính vì vậy, việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng vận chuyển, giao nhận hàng hóa còn có những trở ngại, chi phí cao dẫn tới năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt còn hạn chế. Mặt khác tỉ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp FDI lại chiếm tới 70% kim ngạch.

Riêng nhóm hàng nông sản thực phẩm dù có thế mạnh, nhưng chế biến sâu còn hạn chế, giá trị gia tăng cho người sản xuất và doanh nghiệp còn khiêm tốn. Hàm lượng công nghệ cao trong các sản phẩm Việt còn thấp.

Việc chuyển đổi số trong các ngành kinh tế và các cơ quan quản lý nhà nước và các địa phương tiến hành còn chậm và chưa như mong muốn. Việc tận dụng các FTA mà Việt Nam đã ký kết với các nước cần phải làm mạnh hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn.

Nguồn nhân lực trong nước chưa đáp ứng được với yêu cầu của sự phát triển của thế giới. Phát triển thương mại nội địa còn chậm, đặc biệt là tính liên kết, hợp tác, chia sẻ cùng nhau còn lỏng lẻo, chưa rộng khắp trong các lĩnh vực giữa sản xuất và sản xuất, giữa sản xuất và phân phối, tất cả phải vì mục tiêu thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng nội địa, phát triển nhanh và bền vững.

“Kế sách” ứng phó

Đứng trước những cơ hội và thách thức như vậy, chúng ta cần phải quan tâm một số động thái biến động, thay đổi so với những năm trước đây ở thị trường nội địa cũng như trong giao dịch thương mại quốc tế.

Từ 1-2 năm nay, xuất hiện: xu hướng hiện nay bán hàng không phải vì lợi nhuận cao nhất, mà bán hàng cho những nước thân cận nhất. Mua hàng không phải mua ở những nơi rẻ nhất mà tăng cường việc chủ động sản xuất để tiêu dùng trong nước, hạn chế nhập khẩu. Vẫn tiếp tục phát sinh những rào cản thương mại, kỹ thuật đối với hàng xuất khẩu đi các nước. Trong đó có Việt Nam là 1 nền kinh tế mở.

Xu hướng hiện nay khá phổ biến ở các nước nhập khẩu, đó là tiêu thụ các hàng hóa xanh, sản xuất theo hướng kinh tế tuần hoàn, bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội cao đang là tiêu chuẩn chủ đạo ở các nước phát triển. Ví dụ, từ năm 2024 EU đã quyết định không nhập khẩu những sản phẩm trồng trọt được thực hiện thông qua việc phá rừng lấy đất để sản xuất.

Xu hướng giao dịch thông qua các nền tảng số, thương mại điện tử ngày càng phát triển, sự cạnh tranh giữa thương mại trực tiếp và thương mại online theo chiều hướng quyết liệt hơn. Thương mại phát triển chủ yếu trên cơ sở thiết lập các chuỗi cung ứng ngắn, ít chi phí, tin cậy, an toàn ngày càng phổ biến

Việt Nam phải có những “kế sách” để giữ vững thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời hướng tới một nền kinh tế độc lập tự chủ, lấy xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng là 3 trụ cột chính để tăng trưởng một cách vững chắc. Muốn vậy, chúng ta phải làm gì:

Thứ nhất, phải bảo vệ sản xuất trong nước, nhất là nhóm hàng nông sản thực phẩm, một số mặt hàng thiết yếu khác để phục vụ tiêu dùng cho nhân dân và xuất khẩu. An ninh lương thực là số 1, bởi những biến động khó lường của thế giới như biến đổi khí hậu, địa chính trị phức tạp, xung đột hay xảy ra và kéo dài.

Thứ hai, thực hiện phương châm đa phương hóa quan hệ thương mại, đa dạng hóa hàng hóa, tiếp tục giữ những mối quan hệ bạn hàng truyền thống, đồng thời mở rộng thêm thị trường mới.

Thứ ba, tận dụng các điều khoản trong các FTA đã ký để hỗ trợ cho xuất khẩu và nhập khẩu hợp lý phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trong cả nước.

Thứ tư, từng bước hoàn thiện các chuỗi cung ứng hàng hóa, nhất là các hàng hóa tiêu dùng công nghiệp, năng lượng thiết yếu, tăng cường dự trữ chiến lược, đặc biệt là các mặt hàng như lương thực, năng lượng, các vật tư nguyên liệu thiết yếu cho nền kinh tế, để “đủ sức” chống chọi với những biến động lâu dài.

Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam tại thị trường nội địa và xuất khẩu như giá, chất lượng, bao bì nhãn mác. Đáp ứng các tiêu chuẩn do khu vực và quốc tế đề ra của các nước có quan hệ thương mại.

Như vậy, để thực hiện được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát một cách hợp lý, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế trước mọi sự biến động của thế giới, ngoài sự nỗ lực chủ quan của các doanh nghiệp, sản xuất thương mại là chính, rất cần sự chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và các địa phương.

Chúng ta chắc chắn sẽ từng bước khắc phục những khó khăn hiện tại để vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ về kinh tế nói chung, thương mại nói riêng trong năm 2024. Để từ đó làm tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ hơn trong năm 2025 và những năm tiếp theo.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất